Tiếc công chuốt ná lau tên
Nhạn bay về đền công uổng danh hư
Tiếc công chuốt ná lau tên
Dị bản
Anh mong chuốt ná lau tên
Nhạn đậu chẳng bền công uổng danh hư
Anh mong chuốt ná lau tên
Nhạn đậu chẳng bền công uổng danh hư
Chim quyên đứng dựa bụi riềng
Kiếm nơi đức hạnh, trai hiền gởi thân
Cút cụt đuôi, ai nuôi mày lớn?
Tôi thưa rằng tôi lớn mình ên
Thằn lằn cụt đuôi ai nuôi mày lớn?
Dạ thưa thầy con lớn mình ên
Chiều chiều ra đứng ngõ trông
Ngõ thì thấy ngõ, người không thấy người
Chim quyên đậu tấm ngói vàng
Tay cầm quyển truyện, sầu nàng quên ngâm.
Chim quyên đậu đó, đừng bay
Có chê lồng rách, ta thay lồng lành
Chim quyên lẻ bạn than thở một mình
Bây giờ mình lẻ bạn một mình, mình thở than
Chim quyên xuống đất cũng quyên
Anh hùng lỡ vận cũng nguyên anh hùng
Buồn tình em lắm anh ơi
Không phải thiếu tiền, thiếu gạo, chỉ thiếu chiếc chiếu đôi mà buồn
Làm sao hóa đặng chim xanh
Bay ra đảo vắng thăm anh đỡ buồn
Trông xa cứ nghĩ là tiên
Đến gần cú đậu ở bên cạnh sườn
Ở một số vùng, nỏ cũng được gọi là ná (lưu ý phân biệt với cái ná bắn đạn sỏi).
Trong văn học cổ, chim xanh là sứ giả của Tây Vương Mẫu, nên thường được xem là người đưa tin, làm mối, hoặc chỉ tin tức qua lại, tuy hiện không rõ có đúng là loài chim xanh này không.
Lờ có nhiều loại: Loại đại dài từ 0,5 đến 1 m, gọi là “lờ bầu”, thả chỗ nước sâu như sông, hồ để bắt cá diếc, sảnh, dầy. Loại tiểu gọi là “lờ đồng”, thả nơi nước cạn như ao, đìa, ruộng bắt cá trê, rô, sặc, mương, nhét…