Đôi ta như nút với khuy
Như mây với núi, biệt ly không đành
Đôi ta như nút với khuy
Dị bản
Đôi ta như cúc với khuy,
Như kim với chỉ, bỏ đi sao đành?
Đôi ta như nút với khuy
Như mây với núi, biệt ly không đành
Đôi ta như cúc với khuy,
Như kim với chỉ, bỏ đi sao đành?
Cá chậu, ven chậu loanh quanh
Chim lồng đâu dễ cất mình bay cao
Nói quá vạ thân
Chiếc đũa sánh với cây cau
Chiếc thuyền thúng rách lại sánh với tàu nhà vua
Núi sơn lâm nuôi nhân đào tản,
Biển tây hồ trợ kẻ lâm nguy.
Thương nhau dắt lấy nhau đi,
Ơn thầy nghĩa mẹ lo chi trả đền!
Học khôn đến chết,
Học nết đến già.
Buồn thì cất gánh đi buôn
Một vốn bốn lãi em buồn làm chi
1. Theo phó bảng Nguyễn Văn Siêu trong cuốn Phương Đình dư địa chí (1900) thì: tục truyền sông này nhiều cá sấu, từng đàn đuổi nhau kêu gầm như tiếng trâu rống, cho nên gọi tên như thế. Sách Đại Nam nhất thống chí, phần tỉnh Gia Định, cũng chép tương tự.
2. Theo học giả Trương Vĩnh Ký: Bến Nghé có nguồn gốc từ tiếng Khmer: Kompong: bến, Kon Krabei: con trâu. (Le Cisbassac, tr. 192). Nhà địa danh học Lê Trung Hoa cũng đồng ý rằng: Bến Nghé là cái bến mà "người ta thường cho trâu, bò ra tắm."
Trước đây, nhắc đến vùng Đồng Nai - Bến Nghé nghĩa là nhắc đến cả vùng đất Nam Bộ.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây
(Chạy Tây - Nguyễn Đình Chiểu)
Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi.
Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu.