Gánh nặng mà đi đường vòng
Tuy rằng không gánh nhưng lòng cũng thương
Ngẫu nhiên
-
-
Vắng sao Hôm có sao Mai
Dị bản
Vắng sao Hôm có sao Mai
Chồng cả đi vắng chồng hai ở nhàVắng sao Hôm có sao Mai
Vắng chàng thiếp đã có trai trong nhà
-
Tam tòng tích bởi văn vi
-
Trước lạy cha sau ra lạy má
Trước lạy cha, sau ra lạy má
Con đã có chồng rồi xuất giá tùng phu -
Anh trông em như cá trông mưa
-
Nước trong nước chảy quanh chùa
Nước trong nước chảy quanh chùa
Không yêu ta cũng bỏ bùa cho yêu -
Chẳng mai thì mốt có tin
-
Anh ơi gà đã gáy dồn
-
Lúa chiêm mà thả kín bèo
Dị bản
Mạ chiêm mà đổ kín bèo,
Như con nhà nghèo trời để của cho
-
Ba đồng một mớ rau ngò
-
Bây giờ tui biết phận tui
Bây giờ tui biết phận tui
Chỉ là cơm nguội phòng khi đói lòng -
Đất có bồi có lở
-
Tóc mai sợi vắn sợi dài
-
Khi nào Bến Thủy hết dầu
-
Tay em nắm lấy tay anh
-
Trồng dền thì phải tưới dền
-
Núi sơn lâm nuôi nhân đào tản
Núi sơn lâm nuôi nhân đào tản,
Biển tây hồ trợ kẻ lâm nguy.
Thương nhau dắt lấy nhau đi,
Ơn thầy nghĩa mẹ lo chi trả đền! -
Ngồi buồn đọc sách ngâm thơ
-
Đôi ta lấm tấm hoa nhài
-
Xa nhau tính đã đôi năm
Xa nhau tính đã đôi năm
Bởi thương người nghĩa gan bầm, ruột đau
Chú thích
-
- Sao Kim
- Hành tinh thứ hai trong hệ Mặt Trời, khi xuất hiện lúc chiều tối thì được gọi là sao Hôm, khi xuất hiện lúc sáng sớm thì được gọi là sao Mai. Người xưa lầm tưởng sao Hôm và sao Mai là hai ngôi sao riêng biệt. Trong thi ca, sao Hôm là hoán dụ của hoàng hôn, còn sao Mai là hoán dụ của bình minh.
-
- Tam tòng
- Những quy định mang tính nghĩa vụ đối với người phụ nữ phương Đông trong xã hội phong kiến ngày trước, xuất phát từ các quan niệm của Nho giáo. Tam tòng bao gồm:
Tại gia tòng phụ: khi còn nhỏ ở với gia đình phải theo cha,
Xuất giá tòng phu: khi lập gia đình rồi phải theo chồng,
Phu tử tòng tử: khi chồng qua đời phải theo con.
-
- Văn vi
- Lời nói (văn) và việc làm (vi) (từ Hán Việt).
-
- Gió nồm
- Loại gió mát và ẩm ướt thổi từ phía đông nam tới, thường vào mùa hạ.
-
- Đồng Tròn, đồng Quang
- Tên hai cánh đồng thuộc nay thuộc địa phận Bái Đô, Đô Mỹ, xã Hà Tân, huyện Hà Trung, Thanh Hóa.
-
- Sề
- Đồ đan mắt thưa, nan thô, rộng, to hơn rổ, thường dùng đựng bèo, khoai...
-
- Sàng
- Đồ đan bằng tre, hình tròn, lòng nông, có lỗ nhỏ và thưa, thường dùng để làm cho gạo sạch thóc, trấu và tấm. Hành động dùng cái sàng mà lắc cho vật vụn rơi xuống, vật to còn lại cũng gọi là sàng.
-
- Chợ phiên
- Chợ họp có ngày giờ nhất định.
-
- Chiêm
- (Lúa hay hoa màu) gieo cấy ở miền Bắc vào đầu mùa lạnh, khô (tháng mười, tháng mười một) và thu hoạch vào đầu mùa nóng, mưa nhiều (tháng năm, tháng sáu), phân biệt với mùa. Đây cũng là cách gọi tắt của "lúa chiêm." Theo sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn, người Việt trước đây đã học cách trồng một số giống lúa gieo vào mùa đông, thu hoạch vào mùa hạ từ người Chiêm Thành, nên gọi là lúa chiêm hay lúa chăm.
-
- Ngò
- Còn gọi là ngò rí, rau mùi, loại rau có mùi thơm, thường được trồng làm rau thơm và gia vị.
-
- Thục nữ
- Người con gái hiền dịu, nết na (từ Hán Việt).
-
- Vắn
- Ngắn (từ cổ).
Tự biệt nhiều lời so vắn giấy
Tương tư nặng gánh chứa đầy thuyền
(Bỏ vợ lẽ cảm tác - Nguyễn Công Trứ)
-
- Bến Thủy
- Một địa danh thuộc tỉnh Nghệ An, nay là tên một phường thuộc thành phố Vinh.
-
- Đô Lương
- Địa danh nay là một huyện của tỉnh Nghệ An.
-
- Tơ hồng
- Xem chú thích Nguyệt Lão.
-
- Kết tóc xe tơ
- Kết tóc: Thuở xưa, con trai và con gái đều để tóc dài bới lên đầu. Trong đêm tân hôn, tóc của dâu rể được các nữ tì buộc vào nhau. Xe tơ: Xem chú thích Nguyệt Lão.
Kết tóc xe tơ có nghĩa là cưới nhau, thành vợ thành chồng.
-
- Rau dền
- Một loại rau có tính mát, giàu sắt, là món ăn dân dã phổ biến với người Việt Nam. Ở Việt Nam chủ yếu có hai loại rau dền là dền trắng và dền đỏ (tía). Rau dền thường được luộc hay nấu canh.
-
- Vừng
- Miền Trung và miền Nam gọi là mè, một loại cây nông nghiệp ngắn ngày, cho hạt. Hạt vừng là loại hạt có hàm lượng chất béo và chất đạm cao, dùng để ăn và ép lấy dầu.
-
- Lu
- Mờ, không thấy rõ. Lu li: hơi mờ, mờ mờ (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Nhài
- Còn gọi là lài, loại cây nhỏ có hoa màu trắng rất thơm. Nhân dân ta thường dùng hoa lài để ướp trà.