Mất chồng đây chẳng chút lo
Sợ đó mất vợ nằm co một mình.
Mất chồng đây chẳng chút lo
Dị bản
Mất chồng tôi chẳng có lo
Sợ anh mất vợ nằm co một mình
Mất chồng đây chẳng chút lo
Sợ đó mất vợ nằm co một mình.
Mất chồng tôi chẳng có lo
Sợ anh mất vợ nằm co một mình
Thuận mua vừa bán
Anh về, em nắm vạt áo em la làng
Phải bỏ chữ thương chữ nhớ giữa đàng cho em
Một, hai, ba, nhà bà ba có giỗ
Nghe pháo nổ xách cái rổ chạy qua
Bà ba ơi cho con xin trái ổi
Mụ nội mày ! Mấy trái ổi còn non !
Bấy lâu vắng thiếp xa chàng
Chậu thau ai rửa gương vàng ai soi
Những người thắt đáy lưng ong
Ðã khéo chiều chồng lại khéo nuôi con.
Những ngưòi béo trục béo tròn
Ăn vụng như chớp đánh con cả ngày
Thân em như cây quế giữa rừng
Thơm tho ai biết, ngát lừng ai hay
Ở như cây quế trong rừng
Cay không ai biết, ngọt đừng ai hay
Câu vàng, lưỡi bạc, nhợ tơ
Câu thì câu vậy, cá chờ có nơi
Mang danh là gái có chồng
Mười đêm em những nằm không cả mười
Nói ra thì sợ chúng bạn cười
Má hồng đỏ quá thiệt đời xuân xanh
Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết
Nhà tôi có dãy vườn hoa
Có ba dãy nhãn, có ba dãy dừa
Dù anh đi sớm, về trưa
Sao anh chẳng nghỉ dãy dừa nhà tôi
Trong văn hóa phương Đông, đàn cầm đứng đầu các loại nhạc cụ, tượng trưng cho đức hạnh của người quân tử. Chơi đàn cầm vừa được xem là một thú tiêu khiển tao nhã (cầm, kì, thi, họa), vừa được xem là phương tiện tu tâm dưỡng tính.
Trong ca dao tục ngữ, hình ảnh đào, lựu, mận, mơ... thường được dùng với tính ước lệ để chỉ đôi lứa yêu nhau.