Anh ở làm răng mà lăng nhăng líu nhíu
Vô vòng lịu địu dứt nỏ đặng tình
Em chờ cho truông vắng một mình
Đón anh để hỏi sự tình vì ai
Ngẫu nhiên
-
-
Nghề câu quăng được ăn cá lớn
-
Con đánh mẹ, mẹ la làng
-
Chim bay bờ suối ven cầu
-
Có chồng thì mặc có chồng
-
Em có chồng rồi như lúa đổ vào kho
Em có chồng rồi như lúa đổ vào kho
Quân canh lính gác, anh chớ có lần dò tới chi
Anh về bỏ thói ấy đi
Chồng em biết đặng, anh đi ở tù
– Qua cũng biết em như lúa đổ vào kho
Nhưng anh giả đò ăn trộm lần mò xúc chơi
Họa may có được vài hạt cũng sướng cái đời
Chồng em có bắt được, anh ở chơi năm tù
Cho tờ cải giá tha phu
Miệng thế gian đàm tiếu, họ cũng nói vợ thằng tù thuở xưa -
Thành thị chỗ nào cũng xí xô xí xào khách trú
-
Nào khi mô em nói với anh
-
Sông sâu nước chảy
-
Trên trời những cái vì sao
-
Cách nhau chỉ một con đò
-
Quê em sóng nước xanh xanh
Quê em sóng nước xanh xanh
Bán buôn tấp nập ghe mành liên miên
Từ ngày giặc Pháp cuồng điên
Bao vây đốt phá ghe thuyền nát tan
Chồng em đi biển thác oan
Con em bụng đói da vàng bọc thân
Sớm hôm em chạy tảo tần
Bữa khoai bữa sắn em lần nuôi con
Đá mòn nhưng dạ không mòn
Quê em còn khổ em còn đánh Tây -
Ai về quê ấy Nghĩa An
-
Gái xóm trên có chồng xóm dưới
Gái xóm trên có chồng xóm dưới
Bỏ anh trai láng giềng tát nước đồng sâu
Đồng sâu tát nước thì lâu
Để nhìn đám cưới rước dâu đi về -
Duyên kia ai đợi mà chờ
Duyên kia ai đợi mà chờ
Tình này ai tưởng mà tơ tưởng tình
Sá chi một mảnh gương hình
Để duyên chờ đợi cho mình say mêDị bản
Còn duyên đâu nữa mà chờ
Còn tình đâu nữa mà tơ tưởng tình
-
Con gái mà lấy chồng quan
Dị bản
-
Nghĩ tình tình những thêm thương
Nghĩ tình tình những thêm thương
Đồng xanh ai khiến phải vương máu hồng
Bởi bầy xâm lược tàn hung
Bởi quân bán nước khom lưng cúi đầu -
Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm.
Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.Lồn không lành, mắng quanh làng xóm
Lồn không lành, mắng quanh làng xóm
-
Nhọ đen cũng thể là vàng
-
Trong đời trăm vật trăm ngon
Chú thích
-
- Răng
- Sao (phương ngữ Trung Bộ).
-
- Lịu địu
- Trạng thái bận bịu do phải đeo mang và bị níu kéo nhiều. Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức giảng "Lịu địu:
- đa đoan, bận rộn, không rảnh
- bận bịu, vướng víu."
-
- Nỏ
- Không, chẳng (phương ngữ Trung Bộ).
-
- Đặng
- Được, để, nhằm (từ cũ, phương ngữ).
-
- Truông
- Vùng đất hoang, có nhiều cây thấp, lùm bụi, hoặc đường qua rừng núi, chỗ hiểm trở (theo Đại Nam quấc âm tự vị).
-
- Câu quăng
- Cách câu cá dùng cần dài, mồi thường lớn (ếch, nhái), khi thả câu thì quăng thật xa bờ.
-
- Khi hát bài chòi, bài này được dùng để báo con Tam Quăng.
-
- Mõ
- Một loại nhạc khí thường làm bằng gỗ, khi gõ có tiếng vang. Trong đạo Phật, Phật tử gõ mõ khi tụng kinh. Ở làng quê Việt Nam xưa, khi muốn thông báo gì thì người ta gõ mõ. Người chuyên làm công việc đánh mõ rao việc làng cũng gọi là mõ.
-
- Dầu
- Để đầu trần (phương ngữ).
-
- Chi
- Gì (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Qua
- Từ người lớn dùng để tự xưng một cách thân mật với người nhỏ, hoặc cách tự xưng có đôi chút tính chất khách quan, nhưng thân tình (Từ điển từ ngữ Nam Bộ - Huỳnh Công Tín).
-
- Cải giá tha phu
- Lấy chồng khác vì chồng cũ đi lưu lạc không về.
-
- Đàm tiếu
- Bàn tán (đàm) và chê cười (tiếu).
-
- Chú khách
- Một cách gọi người Hoa sống ở Việt Nam. Từ này bắt nguồn từ chữ "khách trú," cũng gọi trại thành cắc chú.
-
- Phủ
- Tên gọi một đơn vị hành chính thời xưa, cao hơn cấp huyện nhưng nhỏ hơn cấp tỉnh. Đứng đầu phủ gọi là quan phủ, cũng gọi tắt là phủ.
-
- Mốc cời
- Bị mốc nặng, mốc mòn, mốc meo.
-
- Mô
- Đâu, nào (phương ngữ Trung Bộ).
-
- Chừ
- Giờ. Bây chừ nghĩa là "bây giờ" (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Huê
- Hoa (phương ngữ Trung và Nam Bộ). Gọi như thế do kiêng húy tên của bà Hồ Thị Hoa, chính phi của hoàng tử Đảm (về sau là vua Minh Mạng).
-
- Tín chủ
- Người tin tưởng Phật thần, là người tổ chức những cuộc cúng lễ, lên đồng...
-
- Thuyền mành
- Thuyền có buồm trông giống cái mành.
-
- Thác
- Chết, mất, qua đời (từ Hán Việt).
-
- Nghĩa An
- Một địa danh nay là xã Nghĩa An, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, nằm dọc theo bờ biển Đông.
-
- Chùa Hang
- Tên chữ là Thiên Khổng Thạch Tự (Chùa đá trời sinh), một ngôi chùa ở xã An Hải, đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Chùa được xây dựng dưới triều vua Lê Kính Tông. Gọi là chùa Hang vì chùa nằm trong một hang đá lớn nhất trong hệ thống hang động ở Lý Sơn. Chùa còn có tên khác do dân gian gọi là "chùa không sư" vì ở đây không có sư trụ trì.
-
- Thành Bàn Cờ
- Tên một tòa thành cổ nằm phía trong lũy Cổ Lũy, nay thuộc thôn Phương Bình, xã Nghĩa Thương, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Thành do Chiêm Thành xây dựng vào cuối thế kỷ thứ 10, đắp bằng đất, có dạng hình thang, đáy trên 52m, đáy dưới 60m, cạnh bên 25m, có 4 vòng thành, chân xoãi rộng 11m. Sở dĩ có tên là Bàn Cờ vì thành vuông vức như một bàn cờ.
-
- Khái
- Con hổ.
-
- Đàng
- Đường, hướng (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Khoai môn
- Tên một số giống khoai gặp nhiều ở nước ta, cho củ có nhiều tinh bột, ăn được. Có nhiều giống khoai môn như môn xanh, môn trắng, môn tím, môn tía, môn bạc hà, môn sáp, môn sen, môn thơm, môn trốn... mỗi loại có những công dụng khác nhau như nấu canh, nấu chè... Trước đây môn, sắn, khoai, ngô... thường được ăn độn với cơm để tiết kiệm gạo.