Trăng trăng, nước nước, trời trời
Người thương chẳng thấy, thấy trời nước trăng
Trăng trăng, nước nước, trời trời
Dị bản
Trăng trăng, nước nước, trời trời,
Người thương chẳng thấy, thấy đời cô đơn
Trăng trăng, nước nước, trời trời,
Người thương chẳng thấy, thấy đời cô đơn
Thang cao nhiều nấc khó trèo
Đem nhau tới chốn hiểm nghèo bỏ nhau
Ai đi giống dạng anh đi
Giống chân anh bước, ruột em thì quặn đau.
Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm.
Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.
Kéo gỗ thì phải có đà
Đụ sướng thì phải đàn bà hẩy lên
Kéo gỗ thì cốt bỏ đà
Đụ chắc thì cốt đàn bà nắc lên
Ngó ra sóng bủa Bãi Bàng
Một ngày xa bạn, ăn vàng không ngon
Cũng nguyền một tấm lòng son
Nhớ em nước mắt nhỏ mòn con ngươi.
Chiều chiều sóng vỗ Bãi Bàng
Một ngày xa bạn ăn vàng không ngon
Cũng nguyền một tấm lòng son
Nhớ em nước mắt nhỏ mòn con ngươi
Gặp anh đây, lỡ khóc lỡ cười
Năm bảy phần nhớ, chín mười phần thương
Chuỗi sầu ai khéo vấn vương
Gặp nhau một thuở, vấn vương ngàn ngày
Giếng sâu dây ngắn lỡ chừng
Bởi anh bạc trước, sau đừng trách em
Nào người phượng chạ loan chung,
Nào người tiếc lục tham hồng là ai
(Truyện Kiều)
Tương truyền sông Bàn Thạch là thánh địa của loài cá sấu. Dưới đời Minh Mạng, quan sở tại Phú Yên tâu rằng cá sấu ở đây hại người hơn cả cọp, xin thưởng cho ai giết cá sấu như giết cọp. Dân hai bên bờ nộp nhiều bộ da cá sấu để lãnh thưởng.
Một góc bãi cát phía tây nam Hòn Dứa. Bãi cạn đá đen phía trước Hòn Dứa là Hòn Than. Phía xa xa đằng sau là núi Đá Bia.
Tương truyền khi Nguyễn Ánh cùng quân lính bôn tẩu vào Nam, bị quân Tây Sơn chặn đánh tan rã, phải cùng một số cận thần chạy thoát xuống thôn Hội Phú. Quân Tây Sơn đuổi đến thôn Hội Phú, bỗng dưng trời tối như mực, cho là điềm lạ nên không dám xua quân vượt núi. Nguyễn Ánh vượt qua khỏi núi đến dừng chân tạm nơi bãi biển này. Lúc bấy giờ số tàn quân và tướng tá tùy tùng tìm đến, họp bàn rồi dùng thuyền vượt biển vào Nam. Các cụ lão làng lân cận kể lại, từ đó bãi này có tên Bãi Bàng (giọng miền Trung không phân biệt bàn và bàng).