Chủ đề: Khác
- 
        
        
        
    
    
- 
        
        
        
    
    Vừa may mà gặp chùa này
- 
        
        
        
    
    Đất Lam Kiều ngỡ ngàng khó bước
- 
        
        
        
    
    Làm người phải biết ngũ luân
- 
        
        
        
    
    Quả nhãn lồng trong bọc ngoài baoDị bản- Nhỡn lồng trong bọc ngoài bao, 
 Con ong châm còn được huống chi quả hồng đào chín cây
 
- 
        
        
        
    
    Trăm năm còn có gì đâuTrăm năm còn có gì đâu 
 Miếng trầu liền với con trâu một vần
- 
        
        
        
    
    Thuyền dời nhưng bến chẳng dờiThuyền dời nhưng bến chẳng dời 
 Bán buôn là nghĩa muôn đời cùng nhau.
- 
        
        
        
    
    Vô duyên, ghét kẻ có duyênVô duyên ghét kẻ có duyên 
 Không tiền ghét kẻ có tiền cầm tay
- 
        
        
        
    
    Xin trời đừng nắng chớ mưaXin trời đừng nắng chớ mưa, 
 Râm râm gió mát cho vừa lòng tôi.
- 
        
        
        
    
    Xưa kia, em cũng lượt làXưa kia em cũng lượt là 
 Bây giờ áo rách hóa ra thân tàn
- 
        
        
        
    
    Khoai lang bốn tháng thì sùng
- 
        
        
        
    
    Bởi vì Tân biến vi toan
- 
        
        
        
    
    Đường rừng có bốn cái vui
- 
        
        
        
    
    Cái vòng danh lợi cong congCái vòng danh lợi cong cong 
 Kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào
- 
        
        
        
    
    Nhà anh cột nứa kèo tre
- 
        
        
        
    
    Mưa lâm thâm, ướt dầm cây táo
- 
        
        
        
    
    Muốn ăn cá bống, cá hiên
- 
        
        
        
    
    Cô Hai buôn bán tảo tần
- 
        
        
        
    
    Hễ ai mà nói dối ai
- 
        
        
        
    
    Hoàng Sa trời bể mênh môngHoàng Sa trời bể mênh mông 
 Người đi thì có mà không thấy về
 Hoàng Sa mây nước bốn bề
 Tháng hai khao lề thế lính Hoàng SaVideo
Chú thích
- 
    - Cá trê
- Tên một họ cá da trơn nước ngọt phổ biến ở nước ta. Cá trê có hai râu dài, sống trong bùn, rất phàm ăn. Nhân dân ta thường đánh bắt cá trê để làm các món kho, chiên hoặc gỏi.
 
- 
    - Cú
- Một loài chim ăn thịt, thường kiếm mồi vào ban đêm, có mắt lớn ở phía trước đầu. Người xưa xem cú là loài vật xấu xa, tượng trưng cho những người hoặc việc xấu, việc xui xẻo.
 
- 
    - Cò
- Một loài chim rất quen thuộc với đồng quê Việt Nam. Cò có bộ lông màu trắng, sống thành đàn ở vùng đất ngập nước ngọt như hồ ao, kênh mương, sông, bãi bùn ngập nước, ruộng lúa... Thức ăn chủ yếu là các loại ốc, các động vật thuỷ sinh như ếch, nhái, cua và côn trùng lớn. Hình ảnh con cò thường được đưa vào ca dao dân ca làm biểu tượng cho người nông dân lam lũ cực khổ.
“Con cò bay la 
 Con cò bay lả
 Con cò Cổng Phủ,
 Con cò Đồng Đăng…”
 Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn,
 Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ.
 (Con cò - Chế Lan Viên)
 
- 
    - Bấy chầy
- Từ ấy đến nay, bao lâu nay (từ cổ).
Nỗi nàng tai nạn đã đầy, 
 Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương.
 (Truyện Kiều)
 
- 
    - Lam Kiều
- Cầu Lam. Tên một chiếc cầu thuộc huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Điển tích truyền lại rằng Bùi Hàng, người đời Đường, một hôm gặp nàng Vân Tiên và được nàng tặng một bài thơ có ý nhắc đến Lam Kiều là nơi động tiên. Bùi Hàng tìm đến nơi ấy, gặp một giai nhân tên Vân Anh. Hai người kết duyên và cùng lên cõi tiên. Ngày cưới, Bùi Hàng mới biết người đã tặng mình bài thơ kia chính là chị của Vân Anh. Do điển này, Lam Kiều được dùng để chỉ nơi người đẹp ở, hoặc nơi trai gái gặp gỡ và nên duyên vợ chồng.
 
- 
    - Đào nguyên
- Nguồn đào, chỉ cõi tiên trong tác phẩm Đào hoa nguyên kí của Đào Tiềm, nhà thơ lớn đời Đông Tấn, Trung Quốc. Tóm tắt tác phẩm như sau: Vào khoảng triều Thái Nguyên đời Tấn, có một người đánh cá ở Vũ Lăng một hôm bơi thuyền thấy một đóa hoa đào trôi từ khe núi. Ông bèn chèo thuyền dọc theo khe núi, đi mãi rồi đến một thôn xóm dân cư đông đúc, đời sống thanh bình. Người đánh cá hỏi chuyện mới biết tổ tiên của họ vốn người nước Tần, nhưng do không chịu được chế độ hà khắc của Tần Thủy Hoàng nên bỏ lên sống ở đó, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài. Ở lại mấy ngày, rồi người ngư phủ tạm biệt ra về. Sau một thời gian, ông quay lại tìm chốn đào nguyên nhưng không thấy nữa.
Đào nguyên cũng gọi là động đào. 
 
- 
    - Nỏ
- Không, chẳng (phương ngữ Trung Bộ).
 
- 
    - Ngũ luân
- Năm mối quan hệ của đạo đức phong kiến: vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn.
 
- 
    - Nhãn lồng
- Một loại nhãn đặc sản của Hưng Yên, ngon nổi tiếng, thuở xưa thường để tiến vua.
 
- 
    - Sùng
- Bị sâu, bị thối. Sùng cũng có nghĩa là sâu.
 
- 
    - Tân biến vi toan
- Chữ tân 辛 biến thành chữ toan 酸, một quan niệm lí số, theo đó những người thuộc can Tân (Tân Mùi, Tân Tỵ, Tân Mẹo, Tân Sửu, Tân Hợi, Tân Dậu) thường gặp nhiều chua cay (toan) trong cuộc đời. Tân biến vi toan là một trong Thập can chiết tự:
Giáp 甲 biến vi điền 田 
 Ất 乙 biến vi vong 亡
 Bính 丙 biến vi tù 囚
 Đinh 丁 biến vi vu 于
 Mậu 戊 biến vi quả 寡
 Kỷ 己 biến vi ân 殷
 Canh 庚 biến vi cô 孤
 Tân 辛 biến vi toan 酸
 Nhâm 壬 biến vi vương 王
 Quý 癸 biến vi thiên 天
 
- 
    - Phong lưu
- Ngọn gió bay (phong), dòng nước chảy (lưu). Từ này vốn nghĩa là phẩm cách, tinh thần riêng của mỗi người, hiểu rộng ra là sung sướng, vui với cảnh, không phải chịu buồn khổ.
Cõi trần thế nhân sinh là khách cả 
 Nợ phong lưu kẻ giả có người vay
 (Nợ phong lưu - Nguyễn Công Trứ)
 
- 
    - Lạo
- Động tác đưa mái chèo hơi xuôi ra sau, lắc nhẹ cho thuyền đi với tốc độ chậm. Cách chèo này thường được dùng khi chèo thuyền trong phạm vi hẹp như kênh, rạch.
 
- 
    - Mành mành
- Đồ dùng được làm từ tre, gỗ hoặc nhựa, thường được treo ở cửa chính hoặc cửa sổ nhà ở để che bớt ánh sáng.
 
- 
    - Ông ầm
- Một tên gọi dân gian của hổ.
 
- 
    - Cá bống
- Một họ cá sông rất quen thuộc ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam (tại đây loài cá này cũng được gọi là cá bóng). Cá bống sống thành đàn, thường vùi mình xuống bùn. Họ Cá bống thật ra là có nhiều loài. Tỉnh Quảng Ngãi ở miền Trung nước ta có loài cá bống sông Trà nổi tiếng, trong khi ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, loài được nhắc tới nhiều nhất là cá bống tượng. Cá bống được chế biến thành nhiều món ăn ngon, có giá trị cao.
 
- 
    - Cá hiên
- Một loại cá có thân hình thoi khá cao, dẹp bên, vảy tròn lớn. Ở vịnh Bắc Bộ nước ta có hai loài là cá hiên vằn và cá hiên chấm.
 
- 
    - Tảo tần
- Cũng như tần tảo, chỉ người phụ nữ khéo thu vén công việc trong nhà. Tần 苹 là bèo, tảo 藻 là rong, hai thứ rau cỏ mọc dưới nước, người Trung Hoa cổ dùng vào việc cúng tế. Thơ "Thái tần" trong Kinh Thi ca ngợi người vợ biết chu toàn việc cúng tế tổ tiên, viết: "Vu dĩ thái tần, nam giản chi tân. Vu dĩ thái tảo, vu bỉ hành lạo" (Hái bèo ở đâu, bên bờ khe nam. Hái rong ở đâu, bên lạch nước kia). "Tảo tần" còn chỉ sự vất vả cực khổ.
 
- 
    - Ba Giai
- Một danh sĩ sống vào cuối thế kỉ 19, được biết đến chủ yếu qua các giai thoại về Ba Giai-Tú Xuất. Hiện không còn nhiều thông tin về ông, tuy nhiên theo một số nhà nghiên cứu thì ông tên thật là Nguyễn Văn Giai, sống ở khoảng triều Thiệu Trị (1841 - 1847) và Tự Đức (1848 - 1883). Ông cũng được cho là tác giả của Hà thành chính khí ca, thi phẩm gồm 140 câu thơ lục bát về sự kiện thành Hà Nội bị quân Pháp xâm chiếm ngày 25 tháng 4 năm1882.
 
- 
    - Hoàng Sa
- Một quần đảo của Việt Nam gồm khoảng 30 đảo, bãi san hô và mỏm đá ngầm nhỏ ở Biển Đông, cách đảo Lý Sơn khoảng 200 hải lí. Hoàng Sa có nghĩa là cát vàng hay bãi cát vàng. Các chính quyền của Việt Nam từ thế kỷ 17-18 đã tổ chức khai thác ở quần đảo này và đến đầu thế kỷ 19, nhà Nguyễn đã chính thức xác lập chủ quyền ở đây. Hiện nay, quần đảo này của Việt Nam đang bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép.
 
- 
    - Lễ khao lề thế lính
- Một lễ hội của nhân dân huyện đảo Lý Sơn được duy trì hàng trăm năm nay. Lễ nhằm khao quân, tế sống, và làm các nghi lễ thế mạng cho những người sắp xuống thuyền đi thực thi nhiệm vụ do triều đình nhà Nguyễn giao phó, mặt khác còn để tế lễ và tưởng nhớ những người đi lính Hoàng Sa, Trường Sa đã khuất. Khao lề tức là lệ khao định kì hằng năm giống như hình thức cúng việc lề mà một số nơi trong nước còn gìn giữ. Thế lính là nghi lễ tế sống, mang đậm yếu tố phù phép của đạo giáo nhằm thế mạng cho người đi lính. Khi buổi lễ tế thế lính Hoàng Sa kết thúc, người lính coi như “đã có một lần chết,” và “hùng binh” ấy (như cách gọi của vua Tự Đức) có quyền tin tưởng rằng mình sẽ không còn phải chết nữa và có thể an tâm làm nhiệm vụ trong ròng rã sáu tháng trên biển.
 
 
                                
                            








