Cam sành rã rượi bờ ao
Tưởng không rào anh hái, có rào thì thôi
Tuệ Nương
Thành viên của Ca Dao Mẹ. Yêu thích những bài ca dao hóm hỉnh, “đanh đá”, nhưng không kém phần ý nhị, như:
…
Bao giờ chạch đẻ ngọn đa
Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình
…
Hiện đang làm thuê cho tư bản tại Sài Gòn, Việt Nam.
Bài đóng góp:
-
-
Cây vông đồng gói chẳng đặng nem
Dị bản
Xấu lá gói chẳng đặng nem
Tại anh chậm bước nên em có chồng
-
Bước xuống ruộng sâu lỡ sầu tấc dạ
Bước xuống ruộng sâu lỡ sầu tấc dạ
Tay ôm bó mạ nước mắt hai hàng
Ai làm lỡ chuyến đò ngang
Cho loan với phượng đôi đàng biệt lyDị bản
Bước xuống ruộng dâu, sầu đầy tấc dạ
Tay ôm bó mạ, nước mắt lã chã hai hàng
Ai làm trễ chuyến đò ngang
Cho sông cạn nước, đôi đàng rẽ phânBước xuống ruộng sâu, sầu đầy tấc dạ
Tay ôm bó mạ, nước mắt hai hàng
Ai làm trễ chuyến đò ngang
Cho sông cạn nước, đôi dòng biệt ly?
-
Buổi chợ đang đông, con cá hồng anh chê lạt
-
Ăn cơm cũng thấy nghẹn
Ăn cơm cũng thấy nghẹn
Uống nước cũng thấy nghẹn
Nghe lời em hẹn ra bãi đứng trông
Biển xanh bát ngát nhìn không thấy người
Mênh mông sông nước xa vời
Biết rằng còn nhớ những lời thề xưa
Trông ai như cá trông mưa
Ngày đêm tưởng nhớ, như đò đưa trông nồm
Bậu ơi! bậu có nhớ không?
Anh trông ngóng bậu, như rồng ngóng mưaDị bản
Ăn cơm cũng nghẹn
Uống nước cũng nghẹn
Nghe lời bạn hẹn
Ra bãi đứng trông
Bãi không thấy bãi mà người không thấy người.
-
Ân cha nghĩa mẹ chưa đền
Ân cha nghĩa mẹ chưa đền
Bậu mong ôm gối cuốn mền theo ai?Dị bản
Công cha nghĩa mẹ ai đền
Mà em ông áo ôm mền theo anh?
-
Trách cha trách mẹ em lầm
-
Trăng lên đỉnh núi trăng tà
-
Khi xưa một hẹn thì nên
Khi xưa một hẹn thì nên
Bây giờ chín hẹn em quên cả mườiDị bản
-
Anh có thương em thì thương cho trót
Anh có thương em thì thương cho trót
Có trục trặc thì trục trặc cho luôn
Đừng làm theo thói ghe buôn
Nay về, mai ở cho buồn dạ emDị bản
-
Em thương ai nấp bụi nấp bờ
Em thương ai nấp bụi nấp bờ
Sớm trông đò ngược, tối chờ đò xuôi
Thuyền anh đậu bến lâu rồi
Sao em chưa xuống mà ngồi thuyền anh? -
Em ơi ta nguyện nhau cùng
-
Gặp nàng anh nắm cổ tay
Gặp nàng anh nắm cổ tay
Anh yêu vì nết, anh say vì tình
Thiên hạ lắm kẻ giàu, xinh
Nhưng duyên chẳng thuận, nhưng tình chẳng ưa
Đấy đây xứng đáng cũng vừa
Xin đừng kén chọn lọc lừa nơi nao
Mỗi năm tuổi mẹ càng cao
Thấy em lơ lửng ra vào, anh thương
Mỗi người nay ở mỗi phương
Mỗi nhà mỗi việc nhiều đường thanh vân
Xin đem chỉ Tấn, tơ Tần
Kết nguyền loan phượng một lần tào khang -
Gió đưa gió đẩy bông trang
Gió đưa gió đẩy bông trang
Ai đưa ai đẩy duyên nàng tới đây
Tới đây thì phải ở đây
Bao giờ bén rễ xanh cây hãy vềDị bản
-
Em thì vác cuốc thăm đồng
-
Liệu bề thương được thì thương
-
Nhớ chàng lắm lắm chàng ơi
Nhớ chàng lắm lắm chàng ơi
Nhớ lời chàng nói nhớ nơi chàng về
Nhớ khi chỉ núi giao thề
Nhớ từ trú quán, nhớ về quê hương
Đêm nằm những nhớ cùng thương
Nói sao cho xiết mọi đường ái ân -
Đêm đêm khêu ngọn đèn loan
-
Đêm qua anh ngủ nhà ngoài
Đêm qua anh ngủ nhà ngoài
Để em thở vắn than dài nhà trong
Ước gì anh được vô phòng
Loan ôm lấy phượng, phượng bồng lấy loan -
Bữa ăn có cá cùng canh
Bữa ăn có cá cùng canh
Anh chưa mát dạ bằng anh thấy nàngDị bản
Ăn cơm có cá, có canh
Ăn vô mát bụng như anh gặp nàng
Chú thích
-
- Cam sành
- Một loại cam có vỏ dày, sần sùi, thịt có màu cam hoặc vàng đậm, nhiều nước, được xem là một giống cam rất ngon.
-
- Vông đồng
- Loài cây tỏa cành rộng, tạo nhiều bóng mát, thân có nhiều gai, cành xốp dễ gãy đổ khi gặp gió lớn. Hoa màu đỏ, hoa đực mọc thành chùm dài, hoa cái mọc đơn độc tại các nách lá. Quả vông đồng thuộc dạng quả nang, khi khô sẽ nứt ra thành nhiều mảnh, tạo ra tiếng nổ lách tách.
-
- Đặng
- Được, để, nhằm (từ cũ, phương ngữ).
-
- Nem
- Một món ăn làm từ thịt lợn, lợi dụng men của các loại lá (lá ổi, lá sung...) và thính gạo để ủ chín, có vị chua ngậy. Nem được chia làm nhiều loại như nem chua, nem thính... Nem phổ biến ở nhiều vùng, mỗi vùng đều có hương vị riêng: Vĩnh Yên, làng Ước Lễ (Hà Đông), làng Vẽ (Hà Nội), Quảng Yên (Quảng Ninh), Thanh Hóa, Đông Ba (Huế), Ninh Hòa (Khánh Hòa), Thủ Đức (thành phố Hồ Chí Minh), Lai Vung (Đồng Tháp)...
-
- Mạ
- Cây lúa non. Sau khi ngâm ủ thóc giống, người ta có thể gieo thẳng các hạt thóc đã nảy mầm vào ruộng lúa đã được cày, bừa kỹ hoặc qua giai đoạn gieo mạ trên ruộng riêng để cây lúa non có sức phát triển tốt, sau một khoảng thời gian thì nhổ mạ để cấy trong ruộng lúa chính.
-
- Loan
- Theo một số điển tích thì phượng hoàng là tên chung của một loại linh vật: loan là con mái, phượng là con trống. Cũng có cách giải nghĩa khác về loan, mô tả loan là một loài chim giống với phượng hoàng. Trong văn thơ cổ, loan và phụng thường được dùng để chỉ đôi vợ chồng hoặc tình cảm vợ chồng (đèn loan, phòng loan...)
Nào người phượng chạ loan chung,
Nào người tiếc lục tham hồng là ai
(Truyện Kiều)
-
- Cá hồng
- Loài cá có thân bầu dục dài dẹt, thân cá có màu hồng, viền lưng cong đều, viền bụng tương đối thẳng. Đầu cá lõm, mõm dài và nhọn, vây lưng dài, có gai cứng khỏe. Đa số các giống cá hồng sống ở biển, trừ một số ít loài sống trong môi trường nước ngọt.
-
- Gió nồm
- Loại gió mát và ẩm ướt thổi từ phía đông nam tới, thường vào mùa hạ.
-
- Bậu
- Cũng nói là em bậu, tiếng gọi người tiếp chuyện với mình, khác giới tính, có ý thương mến, thân mật. Cách xưng hô "qua, bậu" thường được dùng trong quan hệ vợ chồng, người yêu (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Nhài
- Còn gọi là lài, loại cây nhỏ có hoa màu trắng rất thơm. Nhân dân ta thường dùng hoa lài để ướp trà.
-
- Thời
- Thì. Xưa vì kị húy vua Tự Đức (Nguyễn Phúc Thì) nên chữ này được đọc chạnh đi thành "thời."
-
- Truông
- Vùng đất hoang, có nhiều cây thấp, lùm bụi, hoặc đường qua rừng núi, chỗ hiểm trở (theo Đại Nam quấc âm tự vị).
-
- Lọc lừa
- Chọn đi lọc lại (cũng nói là "lừa lọc", trong đó "lừa" do từ "lựa" đọc trại đi).
Bây giờ gương vỡ lại lành,
Khuôn thiêng lừa lọc, đã đành có nơi.
(Truyện Kiều)
-
- Tấn Tần
- Việc hôn nhân. Thời Xuân Thu bên Trung Quốc, nước Tần và nước Tấn nhiều đời gả con cho nhau. Tấn Hiến Công gả con gái là Bá Cơ cho Tần Mục Công. Tần Mục Công lại gả con gái là Hoài Doanh cho Tấn Văn Công. Việc hôn nhân vì vậy gọi là việc Tấn Tần.
Trộm toan kén lứa chọn đôi,
Tấn Tần có lẽ với người phồn hoa.
(Truyện Hoa Tiên)
-
- Tao khang
- Cũng nói là tào khang hay tào khương, từ Hán Việt: tao là bã rượu, khang là cám gạo, những thứ mà người nghèo khổ thường phải ăn. Vua Hán Quang Vũ (đời Đông Hán, Trung Quốc) có ý muốn gả người chị góa chồng là Hồ Dương công chúa cho quan đại phu Tống Hoằng, nên hỏi "Ngạn vân: phú dịch thê, quý dịch giao, hữu chư?" (Ngạn ngữ có nói: giàu thì đổi vợ, sang thì đổi bạn, có chăng?). Tống Hoằng đáp "Thần văn: Bần tiện chi giao mạc khả vong, tao khang chi thê bất khả hạ đường" (Thần nghe: Bạn bè lúc nghèo hèn chớ nên quên, người vợ tấm cám chớ để ở nhà sau). Nghĩa tao khang do đó chỉ tình nghĩa vợ chồng vun đắp từ những ngày cực khổ.
-
- Trang
- Còn có tên là mẫu đơn, một loại cây cho hoa có các màu đỏ, trắng, vàng. Trang thường được người dân trong nước trồng trước nhà, dưới chân các bàn thiên (nơi thắp hương) ngoài sân, hoặc mọc tự nhiên ở những vùng đồi núi.
-
- Cuốc
- Nông cụ gồm một bản sắt bén (gọi là lưỡi cuốc) gắn vào ống tre cật để cầm (gọi là cán cuốc), dùng để đào xới đất. Động tác đào xới đất bằng cuốc cũng gọi là cuốc đất.
-
- Giả cách
- Giả vờ (từ cổ).
-
- Khêu
- Dùng một vật có đầu nhọn để kéo cho tim đèn trồi lên. Đèn ngày xưa đốt bằng dầu, dùng bấc. Để đèn cháy sáng thì thỉnh thoảng phải khêu bấc. Bấc đèn cũng gọi là khêu đèn.
-
- Tà
- Chếch hẳn về một phía (nói về mặt trời hay mặt trăng) khi ngày hoặc đêm đã quá muộn, đã sắp hết.