Chim kêu dưới suối trên cầu
Trai thương vợ cũ, gái sầu chồng xưa.
Phan An
Sáng lập và chịu và trách nhiệm kĩ thuật cho Ca dao Mẹ. Tác giả của Quẩn quanh trong tổ, Trời hôm ấy không có gì đặc biệt, và Con chim khổng tước còn hót vang ngày mở đất. Hiện đang sống và làm việc tại Munich, Cộng hòa Liên bang Đức.
Bài đóng góp:
-
-
Chiều tà giục ngựa bôn ba
Chiều tà giục ngựa bôn ba
Nghe em đã lấy người ta mất rồi. -
Chiều rồi kẻ bắc người đông
-
Chiều chiều vịt lội bờ sông
Chiều chiều vịt lội bờ sông
Cầu trôi ván nổi, ai bồng em qua? -
Chiều chiều ra đứng bờ mương
Chiều chiều ra đứng bờ mương
Bên tình, bên hiếu, biết thương bên nào?Dị bản
Chiều chiều ra đứng giữa đường
Bên tình, bên nghĩa, anh thương bên nào.
-
Cang thường ba má biểu đừng
-
Đôi ta đã trót lời thề
Đôi ta đã trót lời thề,
Đã giao lời hẹn, ai về mặc ai. -
Có chắc như lời, có hẳn như lời
Có chắc như lời, có hẳn như lời?
Con dao vàng chọc huyết, miệng khấn trời ta uống chung -
Anh về têm một trăm miếng trầu cho tinh tuyết
-
Em về kẻo thầy em dức, kẻo mẹ em la
-
Đồn đây có đôi chim quy
-
Nếp dẻo, nỏ hết láng giềng đổi
-
Thấy người yểu điệu đi qua
Dị bản
Hỡi người yểu điệu đi qua
Trùng triềng mắt phượng cho ta bận lòng
-
Sao trên trời thiếu chiếc lẻ đôi
-
Vì sương cho núi bạc đầu
Vì sương cho núi bạc đầu,
Vì tình em bạc nên sầu lòng anh -
Ô hô! Ba tiếng nhập quan
-
Không ai cho gáo nước cho đỡ thương
-
Đêm đêm thức nhấp mơ màng
-
Trai nên trai, không thiếu chi vợ
-
Người ta sang sông, em cũng sang sông
Chú thích
-
- Người nghĩa
- Người thương, người tình.
-
- Cương thường
- Cũng đọc là cang thường, cách nói tắt của tam cương ngũ thường, một khái niệm về đạo lí của Nho giáo trong chế độ phong kiến dành cho nam giới. Tam cương nghĩa là ba giềng mối (cương là đầu mối của lưới, nắm được cương thì các mắt lưới sẽ giương lên), gồm có quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), và phu phụ (chồng vợ). Ngũ thường (năm đức tính phải có) gồm: Nhân (đức khoan dung), lễ (lễ độ), nghĩa (đạo nghĩa), trí (trí tuệ) và tín (lòng thành thật).
Trong ca dao - dân ca, đạo cang thường thường dùng để chỉ tình cảm vợ chồng.
-
- Mạ
- Cây lúa non. Sau khi ngâm ủ thóc giống, người ta có thể gieo thẳng các hạt thóc đã nảy mầm vào ruộng lúa đã được cày, bừa kỹ hoặc qua giai đoạn gieo mạ trên ruộng riêng để cây lúa non có sức phát triển tốt, sau một khoảng thời gian thì nhổ mạ để cấy trong ruộng lúa chính.
-
- Trầu
- Còn gọi là trầu không, một loại dây leo dùng làm gia vị hoặc làm thuốc. Lá trầu được nhai cùng với vôi tôi hay vôi sống và quả cau, tạo nên một miếng trầu. Ở nước ta có hai loại trầu chính là trầu mỡ và trầu quế. Lá trầu mỡ to bản, dễ trồng. Trầu quế có vị cay, lá nhỏ được ưa chuộng hơn trong tục ăn trầu.
Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi.
Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu.
-
- Ốc xà cừ
- Một loại ốc biển lớn, vỏ dày có nhiều hoa văn đẹp mắt. Vỏ ốc xà cừ thường được dùng để khảm vào các đồ vật bằng gỗ, có tác dụng trang trí, gọi là cẩn xà cừ.
-
- Thầy
- Cha, bố (phương ngữ một số địa phương Bắc và Bắc Trung Bộ).
-
- Chừ
- Giờ. Bây chừ nghĩa là "bây giờ" (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Dức
- Mắng nhiếc. Còn nói dức bẩn (phương ngữ Trung Bộ).
-
- Nỏ
- Không, chẳng (phương ngữ Trung Bộ).
-
- Trổi
- Tốt (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
-
- Mắt phượng
- Đôi mắt đẹp, to, dài, và hơi xếch lên như mắt phượng hoàng.
-
- Trượng
- Đơn vị đo chiều dài cổ của Việt Nam và Trung Hoa. Một trượng dài khoảng 4 mét. Trong văn học cổ, "trượng" thường mang tính ước lệ (nghìn trượng, trăm trượng…).
-
- Nhập quan
- Đưa người chết vào quan tài. Đây là một lễ trong nghi thức đám tang của người Việt.
-
- Bảy thước
- Từ từ chữ Hán 七尺 thất xích, chiều cao trung bình của thân người theo cách ước lượng của người Trung Hoa cổ. Hiểu theo nghĩa hoán dụ, bảy thước chỉ người làm trai hoặc chí làm trai.
Trần Bình Trọng anh hùng ngàn thu trước,
Đem tấm thân bảy thước chống sơn hà
(Á Nam Trần Tuấn Khải)
-
- Lập lường
- Quyết tâm, rắp tâm.
-
- Thức nhấp
- Thức ngủ, tỉnh giấc (từ cũ). Cũng viết là thức nhắp.
-
- Chộ
- Thấy (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
-
- Giấc kê vàng
- Từ cụm từ Hán Việt là hoàng lương mộng, ý nói đời người ngắn ngủi, vinh hoa phú quý tựa như giấc chiêm bao, lấy từ một chuyện trong bộ Thái Bình quảng kí soạn vào đời Tống bên Trung Quốc: Lư Sinh trọ ở Hàm Đan, gặp đạo sĩ Lã Ông. Lư Sinh than vãn cảnh mình cùng khốn. Lã Ông bèn lấy cái gối bằng sứ cho Lư Sinh mượn ngủ. Khi ấy, chủ quán đang nấu một nồi kê (hoàng lương, lúa mạch). Trong giấc ngủ, Lư Sinh nằm mộng thấy được tận hưởng vinh hoa phú quý. Lúc tỉnh dậy, thì nồi kê chưa chín.
-
- Chi
- Gì (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Ba quân thiên hạ
- Mọi người trong thiên hạ. Xem thêm Ba quân.






