Bao phen quạ nói với diều,
Ngả kinh Ông Hóng có nhiều vịt con.
Ngẫu nhiên
-
-
Em ôm bó mạ xuống đồng
-
Trắng như tiên, không phải duyên anh không tiếc
Trắng như tiên, không phải duyên anh không tiếc
Đen như cục than hầm, duyên hợp anh ưng -
Giật vay mớ gạo, mớ lang
-
Ai buồn, ai khóc thiết tha
-
Ngồi buồn, nhớ nước nhớ nhà
Ngồi buồn, nhớ nước nhớ nhà
Nay anh đi lính, bỏ mẹ già ai nuôi. -
Trót đà ngọc ước vàng thề
-
Em về dọn quán bán hàng
-
Phải chi cao đất thấp trời
Phải chi cao đất thấp trời
Hỏi thăm duyên nợ đổi dời thế nao -
Đầu rồng đuôi phụng cánh tiên
-
Hò cho tan tác lá cà
Hò cho tan tác lá cà
Hò cho anh phải bỏ nhà ra đi -
Cuộc đời thằng ở, con sen
-
Khăn mùi xoa, anh tặng em cái trắng, em tặng anh cái xanh
-
Còn duyên chửa nói đã cười
Còn duyên chửa nói đã cười
Hết duyên gọi chín mười lời chả thưaDị bản
Vô duyên chưa nói đã cười,
Có duyên, gọi chín mười lời không thưa.
-
Biết thuở nào con cá ra khỏi vực
Biết thuở nào con cá ra khỏi vực
Biết thuở nào hết cực thân em? -
Hơn ai gạo tám lầu hồng
-
Mặc đời danh lợi đua chen
Mặc đời danh lợi đua chen
Thuyền trôi mặt nước, ngồi xem trăng ngà -
Ngó lên trăng chúc sao nghiêng
Ngó lên trăng chúc sao nghiêng
Vui chung với bạn sầu riêng một mình -
Trăng kia ai gọt nên tròn
Trăng kia ai gọt nên tròn
Nước kia ai gánh giẫm mòn bờ sông? -
Trên trời có đám mây xanh
Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây
Xây dọc rồi lại xây ngang
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân
Rửa chân cho chí rửa tay
Chớ rửa lông mày chết cá ao anhVideo
Chú thích
-
- Diều hâu
- Loài chim dữ, mỏ quặp, có thị lực rất sắc bén, hay bắt gà, chuột, rắn.
-
- Phan Văn Nghêu
- Tên một điền chủ của miền Nam vào thế kỉ 18, nức tiếng giàu có. Người đương thời gọi ông là ông Hóng, chỉ việc tiền bạc của ông nhiều như bồ hóng trên giàn bếp. Khi Nguyễn Ánh đóng quân ở phủ lị Tân An, ông Hóng đã cho đào một con kênh thẳng ra sông Vàm Cỏ Đông để chở lương thực nuôi quân cho chúa Nguyễn suốt 3 tháng trời. Kênh đào này gọi là kinh (kênh) Ông Hóng, nay vẫn còn, thuộc địa phận xã Bình Lãng, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An .
-
- Mạ
- Cây lúa non. Sau khi ngâm ủ thóc giống, người ta có thể gieo thẳng các hạt thóc đã nảy mầm vào ruộng lúa đã được cày, bừa kỹ hoặc qua giai đoạn gieo mạ trên ruộng riêng để cây lúa non có sức phát triển tốt, sau một khoảng thời gian thì nhổ mạ để cấy trong ruộng lúa chính.
-
- Khoai lang
- Một loại cây nông nghiệp với rễ củ lớn, chứa nhiều tinh bột, có vị ngọt, gọi là củ khoai lang. Nhân dân ta trồng và sử dụng khoai lang làm lương thực, tận dụng cả phần củ (rễ), thân, và lá.
-
- Tui
- Tôi (khẩu ngữ).
-
- Giọt châu
- Giọt lệ, giọt nước mắt.
-
- Đà
- Đã (từ cổ, phương ngữ).
-
- Sơn khê
- Núi (sơn) và khe nước chảy (khê). Chỉ vùng rừng núi.
-
- Đàng
- Đường, hướng (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Phượng hoàng
- Một loài chim trong thần thoại Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng. Trước đây, con trống được gọi là Phượng (hay phụng) còn con mái được gọi là Hoàng, nhưng ngày nay thì sự phân biệt đực, cái đã gần như không còn, và phượng hoàng được xem là giống cái, trong khi rồng được xem là giống đực. Phượng hoàng là vua của các loài chim, tượng trưng cho sự thanh cao.
-
- Con sen
- Từ gọi người hầu gái dưới thời Pháp thuộc, có gốc từ tiếng Pháp servante (người ở, người giúp việc).
-
- Khăn mùi xoa
- Khăn vuông nhỏ dùng để lau nước mắt, chùi miệng (từ tiếng Pháp mouchoir). Cũng đọc là mù xoa, mu soa hoặc bô sa.
-
- Phụ mẫu
- Cha mẹ (từ Hán Việt).
-
- Chợ Châu Thành
- Tên một ngôi chợ nay thuộc thị trấn Châu Thành, tỉnh Trà Vinh, trước đây thuộc quận Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long (lúc này Trà Vinh còn là một phần của Vĩnh Long). Đây là một chợ có từ lâu đời và nổi tiếng trong vùng.
-
- Gạo tám xoan
- Cũng gọi là gạo tám thơm, loại gạo hạt nhỏ và dài, khi nấu thành cơm thì dẻo và thơm đặc biệt.
-
- Bát Tràng
- Tên một ngôi làng nay thuộc xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội, nổi tiếng với truyền thống làm gốm sứ.
-
- Hồ bán nguyệt
- Hồ có hình dạng nửa hình tròn. Bán nguyệt nghĩa là một nửa mặt trăng (từ Hán-Việt).
-
- Chí
- Đến, kéo dài cho đến (từ Hán Việt).