Phan An
Sáng lập và chịu và trách nhiệm kĩ thuật cho Ca dao Mẹ. Tác giả của Quẩn quanh trong tổ, Trời hôm ấy không có gì đặc biệt, và Con chim khổng tước còn hót vang ngày mở đất. Hiện đang sống và làm việc tại Munich, Cộng hòa Liên bang Đức.
Bài đóng góp:
-
-
Song le sao khéo kén đôi
Dị bản
Khen ai ai khéo kén đôi
Chồng thì hàm ếch, vợ môi cá mè
-
Một đôi cho đáng một đôi
Một đôi cho đáng một đôi
Anh thì sứt mũi, chị tôi lẹm cằm -
Anh nhấp nhem lấy ả nhập nhèm
Anh nhấp nhem lấy ả nhập nhèm
Tối lửa tắt đèn cũng chẳng lo chi -
Thương chồng nấu cháo đậu mèo
-
Chê tôm ăn cá lù đù
Chê tôm ăn cá lù đù
Chê thằng bụng ỏng, lấy thằng gù lưng -
Đầu gà má lợn thì chê
Đầu gà má lợn thì chê
Lấy thằng câu ếch đi rê ao bèo -
Mẹ ơi, con chẳng lấy dân
-
Răng đen nhưng nhức hạt na
-
Tay cầm quyển sách làm chi
– Tay cầm quyển sách làm chi
Hỏi thăm chỗ lội ấy thì sâu nông?
– Em đây là gái chưa chồng
Nào em có biết sâu nông thế nào! -
Ngỡ là ông thử ông thương
Ngỡ là ông thử ông thương
Ai ngờ ông thử trăm đường ông thôiDị bản
Biết rằng người thử người thương
Hay là người thử trăm đường rồi chêPhải rằng người thử người thương
Hay là người thử trăm đường rồi chê
-
Những người má đỏ hồng hồng
-
Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm.
Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.Vú em như quả mướp hương
-
Chuột kêu chút chít trong vò
-
Sáng trăng quân tử dạo chơi
-
Số thầy là số lôi thôi
-
Dó lâu năm, dó lại thành kỳ
-
Rắn liu điu có phước cũng hóa rồng
-
Khi xưa ước những chân mây
-
Ruột bầu nấu với cá trê
Chú thích
-
- Hè
- Dải đất nền phía trước hoặc chung quanh nhà.
-
- Cá ngão
- Một loại cá thuộc chi cá chép, có điểm đặc trưng là mồm rất rộng. Thịt cá ngão rất thơm và ngọt, nhưng hơi nhiều xương.
-
- Cá mè
- Tên chung của một số loài cá nước ngọt cùng họ với cá chép, có thân dẹp, đầu to, vẩy nhỏ, trắng. Có nhiều loài cá mè, nhưng cá mè trắng và mè hoa là phổ biến hơn cả. Nhân dân ta đánh bắt cá mè để lấy thịt, mỡ và mật cá, vừa để chế biến thức ăn vừa làm thuốc.
-
- Đậu mèo
- Một loại cây mọc hoang, thường được người dân miền núi trồng làm hàng rào. Đậu mèo hình dây leo thân tròn, lá chét dạng màng, hình xoan. Chùm hoa màu đỏ, tím thõng xuống. Quả đậu dẹt, cong hình chữ S, phủ lông trắng, đụng vào bị ngứa. Hạt hình trứng, dài khoảng 1,5cm. Đậu mèo mọc hoang có nhiều độc tố nên chỉ dùng làm thức ăn cho gia súc sau khi đã luộc kĩ.
-
- Chú khách
- Một cách gọi người Hoa sống ở Việt Nam. Từ này bắt nguồn từ chữ "khách trú," cũng gọi trại thành cắc chú.
-
- Răng đen
- Người xưa có phong tục nhuộm răng đen. Từ điển Văn hoá cổ truyền Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới, 2002, trang 511, nói về nhuộm răng như sau:
"Phong tục người Việt cổ coi răng càng đen càng đẹp. Trước khi nhuộm đen phải nhuộm đỏ. Thuốc nhuộm răng đỏ là cánh kiến đỏ trộn với rượu rồi đun quánh như bột nếp. Quét bột này lên mảnh lá chuối hột ấp vào răng trước khi đi ngủ. Làm nhiều lần cho đến khi hàm răng bóng ánh nổi màu cánh gián. Thuốc nhuộm đen: phèn đen, vỏ lựu khô, quế chi, hoa hồi, đinh hương nghiền nhỏ, hòa giấm hoặc rượu, đun cho quánh như hồ dán. Quét lên lá chuối đắp lên răng như nhuộm đỏ. Từ 5 đến 7 ngày thuốc mới bám vào răng, nổi màu đen thẫm rồi đen bóng. Súc miệng bằng nước cốt dừa. Kiêng ăn thịt mỡ, cua cá, vật cứng, nóng. Có khi chỉ nuốt cơm hoặc húp cháo. Kể cả nhuộm đỏ và đen, thời gian kéo dài đến nửa tháng."
-
- Mãng cầu
- Miền Bắc gọi là na, một loại cây ăn quả cho quả tròn có nhiều múi (thực ra, mỗi múi là một quả) khi chín có vị ngọt, mùi rất thơm. Lá, hạt và rễ mãng cầu cũng là những vị thuốc dân gian.
-
- Niêu
- Nồi nhỏ bằng đất nung hoặc đồng, có nắp đậy, dùng để nấu nướng hoặc sắc thuốc. Niêu sắc thuốc thì có thêm cái vòi để rót thuốc.
-
- Mướp
- Cũng gọi là mướp ta hay mướp gối, loại cây thân leo cho hoa màu vàng, quả dài, khi già thì khô thành xơ. Thân, lá, hoa và quả đều dùng làm rau ăn được. Có loại mướp hương cho quả có mùi thơm đặc biệt.
-
- Phật thủ
- Một loại cây có quả thường được dùng để chưng trong dĩa trái cây cúng, đôi khi dùng thay cho chanh hoặc bưởi trong chế biến món ăn, làm mứt, trồng làm chậu kiểng, và làm thuốc Đông y. Phật thủ có nghĩa là bàn tay Phật. Quả phật thủ được cho là mang lại may mắn và tuổi thọ.
-
- Vò
- Hũ lớn làm bằng sành sứ, thường để đựng nước uống, rượu.
-
- Dó
- Loại cây nhỏ trong nhóm cây gỗ lớn, cao từ 8-12m, có hoa màu trắng. Vỏ cây dó (còn gọi là cây dó giấy) là nguyên liệu chủ yếu để sản xuất giấy dó.
-
- Kỳ nam
- Loại trầm hương cao cấp nhất. Cũng như trầm, kỳ nam được hình thành từ lõi của cây Dó bầu, cụ thể là từ sự biến đổi hoàn toàn của các phân tử gỗ nên thường có màu nâu đậm hoặc đen, gỗ mềm gần giống sáp ong. Kỳ nam có mùi thơm ngào ngạt, quý hiếm và rất đắt.
-
- Liu điu
- Cũng gọi là thìu điu, một loài bò sát có đầu hình tam giác và thân có sọc xanh giống như rắn lục, đặc biệt đuôi rất dài, có bốn chân.
-
- Rồng
- Một loài linh vật trong văn hóa Trung Hoa và các nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Rồng được coi là đứng đầu tứ linh, biểu tượng cho sức mạnh phi thường. Dưới thời phong kiến, rồng còn là biểu tượng của vua chúa. Hình ảnh rồng được gặp ở hầu hết các công trình có ý nghĩa về tâm linh như đình chùa, miếu mạo. Dân tộc ta tự xem mình là con Rồng cháu Tiên, và hình ảnh rồng trong văn hóa Việt Nam cũng khác so với Trung Hoa.
-
- Phượng hoàng
- Một loài chim trong thần thoại Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng. Trước đây, con trống được gọi là Phượng (hay phụng) còn con mái được gọi là Hoàng, nhưng ngày nay thì sự phân biệt đực, cái đã gần như không còn, và phượng hoàng được xem là giống cái, trong khi rồng được xem là giống đực. Phượng hoàng là vua của các loài chim, tượng trưng cho sự thanh cao.
-
- Chớp
- Nứt rạn, gãy.
-
- Bìm bìm
- Một loại cây leo, hoa hình phễu, trắng hoặc tím xanh, thường mọc hoang hoặc được trồng làm cảnh ở các bờ rào.
-
- Bầu
- Loại cây dây leo cho quả, thường được nhân dân ta trồng cho bò trên giàn. Quả bầu, hoa bầu và đọt bầu non thường được dùng làm thức ăn, ruột và vỏ bầu khô có thể dùng làm các vật dụng gia đình hoặc làm mĩ nghệ. Có nhiều loại bầu: bầu dài, bầu tròn, bầu hồ lô (bầu nậm)...
-
- Cá trê
- Tên một họ cá da trơn nước ngọt phổ biến ở nước ta. Cá trê có hai râu dài, sống trong bùn, rất phàm ăn. Nhân dân ta thường đánh bắt cá trê để làm các món kho, chiên hoặc gỏi.