Rách như tổ đỉa
Dị bản
Xơ xác như tổ đỉa
Xơ xác như tổ đỉa
Duyên anh hay là phận tôi
Buôn trầu gặp nắng, buôn vôi mưa dầm
Sông Sài Gòn, cầu Bình Lợi
Tôi tưởng mình là chồng, tôi là vợ, tôi chờ tôi đợi hết hơi
Không dè anh kiếm chuyện nói chơi qua đường
Chồng người áo gấm sông Lô
Chồng em ngồi bếp nướng ngô cháy quần
Cất nhà quay cửa về nam
Quay lưng về bắc không làm có ăn.
Thuyền ai ba bốn chiếc nghinh ngang
Chiếc nào chưa vợ để thế gian đi nhờ?
Để làm chi lững đững lờ đờ
Kẻ đi không dứt, người ngồi chờ căn duyên
Gá lời kêu chàng ở dưới thuyền
Đưa em qua đó, hết nhiêu tiền trả cho!
Làm người đừng có so đo
Ta chưa trốn chợ lật đò mấy khi
Chèo thuyền ra rước mau đi
Kẻo mà thục nữ chờ lâu mất lòng
– Thuyền anh ba bốn chiếc bộn bề
Chiếc vô Gia Định, chiếc về Nha Trang
Còn dư một chiếc đưa nàng
Em ơi bước xuống để chàng đưa qua
Đưa em về tới quê nhà
Chữ ân là nặng, còn là chữ duyên
Đất này là đất cụ Đề,
Tây lên bỏ xác, Tây về tan xương
Nam quốc sơn hà Nam Đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
(Lý Thường Kiệt)
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Thôi em chả dám đa mang nữa
Chẳng buộc vào chân sợi chỉ hồng
(Xuân tha hương - Nguyễn Bính)
Khóc vì nỗi thiết tha sự thế,
Ai bày trò bãi bể nương dâu
(Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều)
Ngày nay, địa danh Gia Định chỉ còn dùng để chỉ khu vực trung tâm quận Bình Thạnh của Thành phố Hồ Chí Minh.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, tên "Nha Trang" được hình thành do cách đọc của người Việt phỏng theo âm một địa danh Chăm vốn có trước là Ya Trang hay Ea Trang (có nghĩa là "sông Lau," tiếng người Chăm gọi sông Cái chảy qua Nha Trang ngày nay, vì chỗ con sông này đổ ra biển mọc rất nhiều cây lau). Từ tên sông, sau chỉ rộng ra vùng đất từ năm 1653.