Hai tay cầm vạt áo dày
Chặm hai con mắt, chặm hoài không khô
Ngẫu nhiên
-
-
Cầm hơi miếng bánh đúc vôi
-
Phận hèn chẳng dám sánh đôi
-
Thấp đăng cá nhảy qua lờ
-
Một năm là mấy mùa xuân
-
Tới lui hoài, nàng mang tiếng hổ
-
Mẹ anh như mẹ người ta
Mẹ anh như mẹ người ta
Thì anh có cửa, có nhà từ lâu
Mẹ chồng đối với nàng dâu
Như mèo với chuột có thương nhau bao giờ. -
Trêu ong ong đốt trêu Bụt Bụt đâm
-
Nước chanh giấy rưới vô mắm mực
-
Anh ra đi, cha đánh, mẹ rầy,
-
Giàu con út, khó con út
Giàu con út, khó con út
-
Cô kia cắt cỏ đồng màu
Cô kia cắt cỏ đồng màu
Chăn trâu cho béo làm giàu cho cha
Giàu thì chia bảy chia ba
Phận cô là gái được là bao nhiêu -
Chàng ơi buông áo em ra
– Chàng ơi buông áo em ra
Để em đi chợ kẻo hoa em tàn
– Hoa tàn thì mặc hoa tàn
Mấy thuở gặp nàng, nàng biểu buông raDị bản
Thôi thôi buông áo em ra
Để em đi bán kẻo hoa em tàn
-
Ma chê quỷ hờn
Ma chê quỷ hờn
-
Vì hoa nguyệt mới sang chơi
Vì hoa nguyệt mới sang chơi
Vì hoa nguyệt mới ngỏ lời với hoa
Nguyệt yêu hoa là người nhan sắc
Hoa yêu nguyệt là khách văn nhân
Nguyệt đây hoa đấy cũng gần
Nguyệt đây hoa đấy giao luân một nhà
Nguyệt yêu hoa xích lại cho gần
Để nguyệt than thở ân cần với hoa
Ước gì nguyệt sánh với hoa
Ước gì mình sánh với ta hỡi mình
Ước gì tính sánh với tình
Ai mang cành quýt cành quỳnh sánh đôi
Ước gì quế sánh với hồi
Ước gì thục nữ sánh người văn nhân -
Bao giờ cạn lạch Đồng Nai
Dị bản
-
Cau liên phòng, ai trồng nên quả
-
Ai ơi chớ nghĩ mình hèn
-
Cha mẹ có tóc, đẻ con trọc đầu
-
Im như Bụt mọc trên chùa
Im như Bụt mọc trên chùa
Con vào chánh điện đừng đùa với sư
Cúi lạy con phải từ từ
Đừng có vội vã mà hư thân mình
Chú thích
-
- Chặm
- Thấm từng tí cho khô (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Bánh đúc
- Bánh nấu bằng bột gạo tẻ hoặc bột ngô quấy với nước vôi trong, khi chín đổ ra cho đông thành tảng, thường được ăn kèm với mắm tôm. Bánh đúc là món quà quen thuộc của làng quê.
-
- Kê
- Cây lương thực cùng họ với lúa, quả rất nhỏ, thường gọi là hạt, màu vàng, tập trung thành một bông dài.
-
- Đăng
- Dụng cụ đánh bắt cá, bao gồm hệ thống cọc và lưới hoặc bện bằng dây bao quanh kín một vùng nước để chặn cá bơi theo dòng.
-
- Lờ
- Dụng cụ đánh bắt cá đồng làm bằng nan tre. Hình dạng của lờ giống như một cái lồng, ở một đầu có chế tạo một miệng tròn gọi là miệng hom sao cho cá chỉ có thể từ ngoài chui vào lờ thông qua miệng hom mà không thể chui ra. Khi đặt lờ thường người đặt thả mồi vào trong để dụ cá bơi vào.
Lờ có nhiều loại: Loại đại dài từ 0,5 đến 1 m, gọi là “lờ bầu”, thả chỗ nước sâu như sông, hồ để bắt cá diếc, sảnh, dầy. Loại tiểu gọi là “lờ đồng”, thả nơi nước cạn như ao, đìa, ruộng bắt cá trê, rô, sặc, mương, nhét…
-
- Xí gạt
- Lừa gạt nhưng chỉ để cho vui, không ác ý (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Hồ dễ
- Không dễ dàng.
Chưa chắc cây cao hồ dễ im
Sông sâu hồ dễ muốn êm đềm
(Buồn êm ấm - Quang Dũng)
-
- Dần lân
- Lì lợm, nhẵn mặt (phương ngữ miền Trung). Cũng như lần khân.
-
- Bụt
- Cách gọi dân gian của Phật, bắt nguồn từ cách phiên âm từ Buddha (bậc giác ngộ - Phật) trong tiếng Ấn Độ.
-
- Chanh giấy
- Một loại chanh vỏ mỏng, nhiều nước, vị chua, thơm, múi xanh nhạt.
-
- Mắm mực
- Một loại mắm làm từ mực con nhỏ, còn gọi là mực cơm hay mực sữa. Mắm mực có mùi rất thơm, khi ăn chỉ cần cho ớt, tỏi và vài giọt chanh có thể ăn với cơm vào những ngày mưa rất ngon.
-
- Rau mũi viết
- Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Rau mũi viết, hãy đóng góp cho chúng tôi.
-
- Giấm son
- Thứ giấm rất chua nhưng dịu.
-
- Qua
- Từ người lớn dùng để tự xưng một cách thân mật với người nhỏ, hoặc cách tự xưng có đôi chút tính chất khách quan, nhưng thân tình (Từ điển từ ngữ Nam Bộ - Huỳnh Công Tín).
-
- Bậu
- Cũng nói là em bậu, tiếng gọi người tiếp chuyện với mình, khác giới tính, có ý thương mến, thân mật. Cách xưng hô "qua, bậu" thường được dùng trong quan hệ vợ chồng, người yêu (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Rầy
- La mắng (phương ngữ).
-
- Văn nhân
- Người viết văn hoặc có kiến thức về văn học; người trí thức.
Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng.
(Truyện Kiều)
-
- Quýt
- Một loại cây thân gỗ. Quả hình cầu hơi dẹt, màu xanh, vàng da cam hay đỏ, vỏ mỏng, nhẵn hay hơi sần sùi, không dính với múi nên dễ bóc; cơm quả dịu, thơm, ăn có vị ngọt; hạt trắng xanh. Hoa, lá, vỏ, xơ và múi quýt cũng là những vị thuộc dân gian.
-
- Quỳnh
- Tên gọi chung cho loài cây cảnh có hoa thường nở về đêm, được mệnh danh là nữ hoàng bóng đêm. Dân ta có có thói quen trồng quỳnh chung với cây cành giao. Hoa quỳnh từ lâu đã đi vào thơ văn và nhạc.
Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thể cây quỳnh cành giao
(Truyện Kiều)Nghe bài Chuyện đóa quỳnh hương của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
-
- Quế
- Một loại cây rừng, lá và vỏ có tinh dầu thơm. Vỏ quế ăn có vị cay, là một vị thuốc quý (Quế chi) trong các bài thuốc Đông y. Trong văn học cổ, cây quế thường tượng trưng cho sự thanh cao, đẹp đẽ.
-
- Hồi
- Cũng gọi là tai vị, một loại cây mọc nhiều ở các vùng rừng núi miền Bắc, cho quả có nhiều cánh giống hoa nên thường được gọi là hoa hồi. Hồi là một loại dược liệu (hồi hương) và hương liệu, và cũng là một gia vị dùng khi nấu phở.
-
- Thục nữ
- Người con gái hiền dịu, nết na (từ Hán Việt).
-
- Sông Đồng Nai
- Con sông dài nhất chảy trên lãnh thổ nước ta, chảy qua các tỉnh Lâm Đồng, Đăk Nông, Bình Phước, Đồng Nai, Bình Dương và Thành phố Hồ Chí Minh. Trước đây sông có tên là Phước Long, đặt tên theo phủ Phước Long (Biên Hòa - Thủ Dầu Một) hiện nay. Sông chảy qua thành phố Biên Hòa và đến Nhà Bè thì có thêm chi lưu là sông Sài Gòn.
-
- Chùa Thiên Mụ
- Còn gọi là chùa Linh Mụ, một ngôi chùa cổ được xây dựng từ năm 1601, nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, thành phố Huế.
-
- Chùa Châu Thới
- Tên chữ là Châu Thới Sơn Tự, một ngôi chùa được dựng từ năm 1662 trên đỉnh núi Châu Thới, thuộc xã Bình An, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương, nằm bên bờ sông Đồng Nai. Sách Gia Định Thành Thông Chí chép: "Ở đuôi dãy núi Châu Thới về phía Bắc, nứt ra một chi chạy đến địa phận thôn Long Tuy, rồi nổi lên gò cao bằng phẳng rộng rãi; ở trên núi có hang hổ và suối nước, dân chúng ở dọc theo đó. Trên núi có chùa Hội Sơn là chỗ Thiền sư Khánh Long sáng tạo để tu hành..."
-
- Cau liên phòng
- Cũng gọi là cau truyền bẹ, một giống cau thân thấp, cho quả quanh năm. Khi ăn trầu, so với giống cau cho quả theo thời vụ thì quả cau liên phòng không đẹp và không ngon bằng. Có nguồn cho rằng có tên như vậy vì giống cau này thường được trồng nhiều cây liên tục nhau thành hàng.
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
(Tương tư - Nguyễn Bính).
-
- Khúc nôi
- Nỗi lòng tâm sự thầm kín khó nói ra (từ cũ). Cũng nói là khúc nhôi.
-
- Lắng
- Để yên cho cấn, bã chìm xuống đáy. Cũng gọi là lóng.