Công danh đeo đuổi mà chi
Sao bằng chăm chỉ giữ nghề canh nông
Sớm khuya có vợ, có chồng
Cày sâu bừa kỹ mà mong được mùa
Ngẫu nhiên
-
-
Trách người sao chẳng biết nghe
-
Càng quen càng lèn cho đau
Càng quen càng lèn cho đau
-
Gió nào độc bằng gió Gò Công
-
Phải chi em vác nổi cây súng đồng
Phải chi em vác nổi cây súng đồng
Em ra đi lính thế cho chồng một khi -
Giã em ở lại vuông tròn,
-
Nồi, niêu, tích để hững hờ
-
Anh ngồi một góc, em ngồi một góc
Anh ngồi một góc, em ngồi một góc
Em nghe anh khóc sướt mướt cuộc tình
Chờ khi còn lại một mình, em khóc theo -
Mắt trước mắt sau
Mắt trước mắt sau
-
Ai chê đám cưới, ai cười đám ma
-
Chớ tham ngồi mũi thuyền rồng
-
Bằng đống cứt voi
-
Ai mà muốn học thổi kèn
-
Trai cần chăm việc sách đèn
-
Yêu nhau cởi áo cho nhau
Yêu nhau cởi áo cho nhau
Về nhà mẹ hỏi, qua cầu gió bayVideo
-
Chín năm bắn phá không bằng bù giá vào lương
-
Bò trao chạc, bạc trao tay
-
Dù con đô đốc quận công
-
Con không cha như nhà không nóc
Con không cha như nhà không nóc
Dị bản
Con mất cha như nhà mất nóc
-
Cô kia cắt cỏ một mình
Cô kia cắt cỏ một mình
Cho anh cắt với chung tình làm đôi
Cô còn cắt nữa hay thôi?
Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng
Chú thích
-
- Thiên lý
- Một loại cây dây leo, thường được trồng thành giàn lấy bóng mát, lá non và hoa dùng để nấu ăn.
-
- Mành mành
- Đồ dùng được làm từ tre, gỗ hoặc nhựa, thường được treo ở cửa chính hoặc cửa sổ nhà ở để che bớt ánh sáng.
-
- Gió độc Gò Công
- Một tên gọi dân gian của trận bão năm Giáp Thìn (1904).
-
- Châu Đốc
- Địa danh nay là thị xã của tỉnh An Giang, nằm sát biên giới Việt Nam - Campuchia và cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 250 km về phía Tây. Châu Đốc nổi tiếng vì có nhiều món ăn ngon và nhiều di tích lịch sử. Dưới thời Pháp thuộc, Châu Đốc là điểm khởi đầu thủy trình đến Nam Vang.
Theo học giả Vương Hồng Sển, địa danh Châu Đốc có nguồn gốc từ tiếng Khmer moat-chrut, nghĩa là "miệng heo."
-
- Giã
- Như từ giã. Chào để rời đi xa.
-
- Niêu
- Nồi nhỏ bằng đất nung hoặc đồng, có nắp đậy, dùng để nấu nướng hoặc sắc thuốc. Niêu sắc thuốc thì có thêm cái vòi để rót thuốc.
-
- Ấm tích
- Loại ấm thường làm bằng sành hoặc gốm sứ, lớn hơn ấm trà độc ẩm (loại ấm thông dụng trong phòng khách ngày nay, có kích cỡ nhỏ vì nguyên thủy chỉ dành cho một người uống), thường được bỏ vào giỏ ủ đan bằng tre hay mây, bên trong có chằn vải bông giữ nhiệt. Ấm tích thường được dùng hãm chè xanh hoặc trà tươi, có quai cầm bên trên và có khả năng ủ chè nóng lâu.
-
- Xáng
- Đánh, đập mạnh một cái gì (xáng chén, xáng bạt tai...).
-
- Theo giai thoại, câu này do một cô gái hát để trêu Trần Hàn, trong có nhắc đến tên ông và bốn người vợ: Nồi, Tích, Hửng, Xáng.
-
- Ai chê đám cưới, ai cười đám ma
- Trong đám cưới hoặc đám ma, gia chủ rất bận rộn, nên nếu có gì sơ xuất cũng dễ (hoặc nên) được bỏ qua.
-
- Thuyền rồng
- Loại thuyền có trang trí, chạm khắc hình rồng, ngày xưa là thuyền dành cho vua chúa. Dân tộc ta cũng có truyền thống đua thuyền rồng trong các dịp lễ hội.
-
- Vợ lẽ
- Vợ hai, vợ thứ.
-
- Ốc len
- Một loại ốc to khoảng ngón tay trỏ hoặc ngón tay cái, màu nâu đậm xen lẫn vân trắng, vỏ cứng với nhiều đường gân nhỏ xoay quanh. Ốc len thường được chế biến thành các món đặc sản như ốc len hầm nước dừa hoặc ốc len xào dừa.
-
- Cần
- Siêng năng (từ Hán Việt).
-
- Bù giá vào lương
- Một giải pháp kinh tế của thời bao cấp, theo đó các hàng hóa phân phối cho công nhân viên chức được quy ra tiền theo giá thị trường rồi cộng vào lương tháng. Giải pháp này giải quyết được nhiều vấn đề của cơ chế bao cấp: chính quyền nắm được giá cả, công nhân viên được tự do lựa chọn hàng hóa, giảm tình trạng đầu cơ… Đây là sáng kiến của ông Nguyễn Văn Chính (thường gọi là Chín Cần), bí thư tỉnh Long An lúc bấy giờ.
-
- Chạc
- Dây bện bằng lạt tre, lạt nứa, ngắn và nhỏ hơn dây thừng.
-
- Bò trao chạc, bạc trao tay
- Làm việc gì cũng phải rạch ròi, dứt điểm.
-
- Đô đốc
- Tên một chức quan chuyên trách về quân sự trong thời phong kiến. Tùy theo từng thời kì mà chức đô đốc có những quyền hạn khác nhau, nhưng đều là cấp cao (ví dụ đứng đầu bên võ).
-
- Quận công
- Một tước hiệu thời phong kiến trong lịch sử nước ta, phổ biến nhất vào thời vua Lê - chúa Trịnh. Khi ấy quận công được xếp chỉ sau vua, chúa và vương.