Ăn đằng sóng nói đằng gió
Ăn đằng sóng nói đằng gió
Dị bản
Ăn đầu sóng nói đầu gió
Ăn đằng sóng nói đằng gió
Ăn đầu sóng nói đầu gió
Ở nhà thì sợ cái nghèo
Ra đi thì sợ cái đèo Cù Mông
Không đi thì nhắc thì trông
Có đi thì sợ Cù Mông, Xuân Đài
Không đi thì sợ cái nghèo
Có đi thì sợ cái đèo Cù Mông
Không đi thì nhắc thì trông
Có đi thì sợ Cù Mông, Xuân Đài
Đời người được mấy gang tay,
Ai hay ngủ ngày chỉ được nửa gang
Bao giờ Chợ Quán hết vôi
Thủ Thiêm hết giặc, em thôi đưa đò
Bắp non mà nướng lửa lò,
Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm
Trai chê vợ, mất của tay không,
Gái chê chồng, một đồng thành bốn
Đêm khuya lặng gió thanh trời
Khuyên chàng bớt ngủ, nghe lời em than
Ai biết có sống đến mai mà để củ khoai đến mốt
Được bạc thì sang,
Được vàng thì lụi
Được bạc thì sang, được vàng thì lụn bại
Học trò cao cẳng dài giò
Chân đi ngoài ngõ, miệng thò trong mâm
Lờ có nhiều loại: Loại đại dài từ 0,5 đến 1 m, gọi là “lờ bầu”, thả chỗ nước sâu như sông, hồ để bắt cá diếc, sảnh, dầy. Loại tiểu gọi là “lờ đồng”, thả nơi nước cạn như ao, đìa, ruộng bắt cá trê, rô, sặc, mương, nhét…
Đối với người dân Nam Bộ, truyện Lục Vân Tiên có sức ảnh hưởng rất lớn, được xem là hơn cả Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Kiều Nguyệt Nga được người dân Nam Bộ xem là biểu tượng của lòng chung thủy.
Công rằng : "Muốn trọn việc mình,
"Phải toan một chước dứt tình mới xong.
"Nghe rằng : "Trong núi Thương tòng.
"Có hang thăm thẳm bịt bùng khôn ra.
[...]
Võ công ra trước dỗ chàng:
"Xuống thuyền rồi sẽ đưa sang Đông thành."
Ra đi đương lúc tam canh,
Dắt vào hang tối bỏ đành Vân Tiên.
Gọi là gặp gỡ giữa đường
Họa là người dưới suối vàng biết cho
(Truyện Kiều)